Đề:
1. John Keller: “Cách tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thêm thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại”
Bài làm
Chiến tranh,xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc,... đều để lại trong lòng mỗi con người một vết thương khó lòng mà lành lại. Đó là vết thương của tâm hồn, của những nỗi đau chia li và mất mát, của đất nước, của dân tộc. Vì lẽ đó, tận sâu trong lòng mỗi người chúng ta ai cũng mong muốn đất nước mình được hòa bình, mong muốn thế giới này tràn đầy những điều tốt đẹp,là đoàn kết,là hữu nghị. Nhưng làm thế nào ta có thể có được hòa bình là câu hỏi lớn đang được nhiều người đặt ra. Phải chăng “ Cách tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thêm thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại” như John Keller đã từng phát biểu?
Để hiểu được câu nói của John Keller, trước hết ta cần hiểu được hòa bình là gì? Có lẽ mỗi người trong chúng ta chỉ hiểu đơn thuần hòa bình là không có chiến tranh. Định nghĩa ấy đúng nhưng chưa đủ. Hòa bình là trạng thái xã hội không có chiến tranh, không dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, các nhóm chính trị xã hội. Hòa bình đối ngược với chiến tranh. Trong xã hội có nhiều chính đảng, hòa bình cũng được mô tả bởi mối quan hệ giữa các đảng phái trong sự tôn trọng lẫn nhau và theo công lý. Nhìn chung hòa bình thường không liên tục, luôn bị gián đoạn bởi các cuộc chiến tranh. Bên cạnh khái niệm hòa bình, trong câu nói của mình John Keller còn phát biểu về khái niệm đồng loại. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp, đồng loại là những con người có cùng mục tiêu, cùng ý chí, có những đặc điểm giống nhau về nơi ở,... nhưng nếu hiểu rộng hơn, đó là những con người sống trong cùng một quốc gia, một khu vực, rộng hơn nữa là những con người sống trên thế giới, và có lẽ là tất cả những sinh vật cùng tồn tại trên quả đất này. Khái niệm đồng loại ở đây có thể được hiểu là tất cả những sinh vật cùng tồn tại trên quả đất này, bao gồm cả loài người và những sinh vật khác. Thông qua đó, ta có thể hiểu được ý nghĩa sâu sắc trong câu nói của John Keller.
“Cách tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thêm thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại”. Những hành động yêu thương xuất phát từ lòng nhân hậu sẽ như những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng đốt lên những ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương sẽ có đủ sức mạnh để xua tan bóng tối của những đau khổ và cái ác vẫn đang hiện hữu trong cuộc sống. Đó là cách đơn giản mà hiệu quả nhất để con người ta hiểu nhau, xích lại gần nhau hơn. Và chỉ khi con người ta thật sự rút ngắn được khoảng cách giữa mọi người, đã thật sự sống với nhau bằng tình thương thì có lẽ cuộc sống này sẽ không còn tồn tại khái niệm chiến tranh. Bởi lẽ “Không thể gìn giữ hòa bình bằng bạo lực. Nó chỉ có thể đạt được bằng sự thông hiểu lẫn nhau” (Albert Einstein). Bạn biết không, trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người giết hại nhau mà không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ nhau, áp bức bóc lột nhau mà không cần chiến tranh. Có lẽ, bạn nhìn sự việc và hiểu rằng điều đó chỉ là một việc bình thường, nó hầu như không thể dẫn đến chiến tranh. Nhưng hãy thử nghĩ mà xem, nếu như trên thế giới này, chúng ta cứ 2 người lại mâu thuẫn với nhau, đấu đá, chém giết lẫn nhau, làm khổ nhau mà không cần đến súng đạn thì thế giới sẽ như thế nào? Chẳng phải khi ấy thế giới này là một tập hợp các cuộc chiến nhỏ, và đã bao giờ bạn nghĩ đến rằng,những cuộc chiến nhỏ ấy chính là tiền đề của những nỗi đau chiến tranh giữa các nước, các dân tộc. Hay bạn hãy thử một lần nghĩ về thế giới nếu tất cả mọi người sống cho riêng mình, sống vì mình và không cần yêu thương đến ai, có phải bạn cảm thấy điều đó tồi tệ lắm? Vâng, nếu mỗi người chúng ta để cho ngày ấy xảy ra thì con người chúng ta sẽ đi vào bước đường diệt vong do chúng ta tự dựng nên như nhà văn Nga M.Gorki đã từng nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là nơi không có tình thương”. Hãy nhìn vào thực tế cuộc chiến tranh chống đế quốc Pháp và Mỹ trên quê hương chúng ta mà ngẫm nghĩ về câu nói của John Keller.Bạn thử nhớ lại xem, bọn giặc ác ôn đã thực hiện chính sách ác độc với nhân dân ta. Chúng đã để lại biết bao vết thương về thể xác lẫn tinh thần trong người lính cách mạng,trong nhân dân,trong đồng bào và trên cả mảnh đất hình chữ S thân yêu. Thế nhưng dân ta vẫn thắng, vẫn đem lại sự hòa bình cho dân tộc để chúng ta có được những tháng ngày yên bình như thế này là do đâu? Đó là một tấm lòng yêu nước nồng nàn, và trên hết đó là tình thương giữa đồng loại với nhau. Chắc hẳn bạn đã từng nghe qua những con người thầm lặng cưu mang lấy những chiến sĩ cách mạng, hay nghe đến những tấm lòng đồng chí đồng đội ngay trong lao tù hung ác của giặc. Bạn thấy đấy, ở ngay cả nơi tăm tối, đầy rẫy những cái ác, tình yêu thương giữa đồng người với người vẫn vươn lên, vẫn đưa những chiến sĩ ta trở về với cách mạng, với cuộc sống hòa bình ngay trong chốn đen tối. Chính những hành động yêu thương giữa đồng bào, đồng chí là nguồn động lực mạnh mẽ đưa dân tộc ta đến với nền độc lập như hôm nay. Sức mạnh của tình thương có thể bé nhỏ như một ánh nến. Nhưng một ánh nến cũng có thể là ngọn đèn soi sáng cho nơi tăm tối nhất của thế giới. Và nếu mỗi người chúng ta cùng góp chung ánh sáng, thì ánh sáng ấy chính là thứ ánh sáng vô biên, vĩnh cửu không gì dập tắt được dù cho đó có là gió bão hay bom đạn. Tình yêu thương mà John Keller đề cập đến không đơn thuần chỉ là tình yêu thương giữa người với người, mà là tình yêu thương giữa đồng loại. Nó bao hảm cả tình yêu thương giữa người với người, giữa người với sinh vật cùng chung sống trên Trái đất này. Con người không thể một mình tồn tại nếu thiếu đi thực vật, động vật hay những yếu tố tự nhiên khác. Vì lẽ đó, con người cũng cần biết yêu thương đồng loại của mình. Đó là cách để con người ta xây dựng hòa bình. Có thể bạn sẽ thấy điều đó rất ư là buồn cười, nhưng hãy thử nghĩ đến khi Trái Đất mất màu xanh hay khi Trái đất vắng đi những người bạn động vật? Khi ấy, con người không những sẽ sống trong chiến tranh giữa các nước mà còn sống trong sự chiến tranh giữa những người cạnh mình. Đó là cuộc chiến cho sự sống còn, cuộc chiến giành lấy lợi ích của mình mà trong mỗi con người đều có ít nhiều. Có thế bạn mới thấy được lòng yêu thương giữa đồng loại với nhau chính là liều thuốc xoa dịu mọi nỗi đau, là ánh sáng dẫn dắt con người đi đến những bến bờ hạnh phúc. Tuy nhiên, để xây dựng hòa bình, chúng ta còn cần phải tăng thêm những hành động hảo tâm của mình như John Keller đã nói. Hành động hảo tâm thực chất là hành động xuất phát từ tình yêu thương giữa người với người, giữa người với những sự sống xung quanh mình. Mỗi chúng ta chắc hẳn ai cũng từng nghe qua cái tên Bill Gates lừng lẫy, và cũng biết ông đã hiến 95% gia tài của mình cho việc làm từ thiện. Hay không cần là lớn lao như Bill Gates, chúng ta vẫn có thể bắt gặp những cử chỉ nhân ái, lòng hảo tâm khi cùng nhau đóng góp mua tăm tre do hội người mù làm ra để góp phần giúp cho đời sống của họ tốt hơn,sung túc hơn, hay những món đồ dù không giá trị, những bộ quần áo cũ, những quyển sách cũ được đưa tới tay đồng bào miền Trung sau cơn lũ thắm đậm cả tình yêu thương. Tất cả những cử chỉ ấy dù lớn lao hay nhỏ bé đều mang lại cho con người ta sự ấm áp. Có thể bạn nghĩ khi cho đi là bạn mất mát, cho đi tình thương, cho đi lòng hảo tâm là bạn mất rất nhiều, nhưng ngược lại, cho đi là nhận lại, nhận nhiều hơn cả những điều bạn cho đi. Thứ bạn nhận lại rất quý giá, đó là ánh sáng của tình thương, ánh sáng của hòa bình, là thứ keo gắn kết bạn với mọi người và gắn kết bạn với thế giới, vì thế hãy đừng ngại cho đi tình thương, cho đi lòng hảo tâm của chính mình,bạn nhé. Vì như John Keller đã nói: “Cách tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thêm thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại”.
“Cách tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thêm thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại”, vậy làm thế nào ta có thể tăng thêm những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại? Điều đó có được hay không là tùy vào bản thân môi người. Bởi lẽ bẩm sinh con người khi sinh ra đã có phần “con”và phần “người”. Vì thế, việc chất người trội hơn hay không là do quá trình rèn luyện và tích lũy kinh nghiệm sống của mỗi người. Điều đó không cần phân biệt giàu hay nghèo, mạnh hay yếu mà mọi người là bình đẳng như nhau. Có thể có những người giàu cả tiền lẫn lòng hảo tâm và tình thương như Bill Gates, nhưng cũng có những con người giàu tiền tài nhưng lại nghèo lòng thương người; có những người nghèo về vật chất nhưng cũng sống giàu tinh thần, giàu tình thương. Nói chung, để có thể tăng thêm những hành động yêu thương và lòng hảo tâm không phụ thuộc vào khả năng kinh tế mà phụ thuộc vào đời sống tâm hồn của mỗi người. Vì thế chúng ta hãy tập sống thật giàu lòng nhân ái, sống chậm rãi để ôm lấy từng phút giậy của cuộc sống, để biết quý giá những gì cuộc sống và mọi người đã dành tặng cho ta. Có như thế ta mới có thể tăng thêm tình yêu thương của mình, để từ đó biết yêu hơn nhưng người xung quanh mình, yêu những sinh vật nhỏ bé, yêu cuộc sống. Và chỉ có tình yêu thương của tâm hồn mới giúp ta tăng thêm được những hành động yêu thương và hảo tâm đối với đồng loại mà thôi. Tập thói quen sống, tập tăng thêm những hành động yêu thương và hảo tâm chính là cách bạn hành động vì hòa bình. Vì một lẽ “Nói về hòa bình là không đủ. Bạn phải tin vào nó. Và tin vào hòa bình là không đủ. Bạn phải hành động vì nó.” (Eleanor Roosevelt).
Tuy nhiên, nhìn lại vấn đề, trên thực tế hiện nay vẫn có nhiều trường hợp những người thực hiện những hành động yêu thương, hảo tâm chỉ để tăng danh tiếng của mình chứ không xuất phát từ tình yêu thương chân thành của con người với đồng loại. Đó là những hành động từ thiện cho có vẻ để được báo chí và các phương tiện truyền thông đề cao và đánh bóng tên tuổi, để từ đó công việc làm ăn của họ có được thuận lợi. Và như thế, ý nghĩa cao đẹp và thiêng liêng của tình thương, của những hành động hảo tâm đã bị vẩn đục bởi lợi ích của một vài cá nhân. Tình yêu thương là điều xuất phát từ tấm lòng, và chỉ có những tình yêu thương thật sự mới hướng con người ta tới những hành động yêu thương, hảo tâm thật sự. Và bạn có biết không, chỉ có những hành động yêu thương, hảo tâm thật sự mới âm thầm lặng lẽ mà nở những cành non của tình thương, của sự sống, của hòa bình.
Trong cuộc sống, chúng ta rất cần có những cử chỉ, những hành động yêu thương và hảo tâm thật sự. Vì như John Keller đã nói : “Cách tốt nhất để xây dựng hòa bình là tăng thêm thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại”.
2. Hình tượng nhân vật nữ trong tác phẩm của Nam Cao
Bài làm
Thần thoại Hi Lạp kể rằng: “Thượng đế đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng, đường uốn cong của loài dây leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoa, nét mềm mại của loài lau cói, màu rực rỡ của nhị hoa, điệu nhẹ nhàng của chiếc lá, cảm giác tinh vi của vòi voi, cái nhìn đăm chiêu của mắt hươu, cái xúm xít của đàn ong, ánh rực rỡ của mặt trời, nỗi xót xa của tầng mây, luồng biến động của cơn gió, tính nhút nhát của con hươu rừng, sắc lộng lẫy của con chim công, hình nhuần nhuyễn của con chim yểng, chất cứng rắn của ngọc kim cương, vị ngon ngọt của đường mật, khí lạnh lẽo của băng tuyết, đức trung trinh của chim uyên ương, đem mọi thứ ấy hỗn hợp lại, nặn thành người phụ nữ.”. Phụ nữ là linh hồn của cuộc sống muôn loài. Hình tượng người phụ nữ là một trong những đề tài lớn có sức hấp dẫn của văn học. Và trong lịch sử nền văn học Việt Nam, hình tượng người phụ nữ chứa đựng nhiều vẻ đẹp diệu kỳ và tinh tế, mà điển hình là hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của Nam Cao.
Đọc tác phẩm của Nam Cao, ta có thể cảm nhận đuợc cái xót xa, thương cảm mà ông dành cho nhửng người phụ nữ, bởi lẽ dường như trong tác phẩm của ông, người phụ nữ hiện lên với tất cả những sự giày vò của xã hội, của cuộc sống, của gia đình. Chúng ta bắt gặp một Thị Nở xấu đến rợn người trong Chí Phèo. Con người ấy dù xấu đến mấy cũng là một người phụ nữ. Thị cũng biết yêu, biết giận, biết lườm người yêu, biết ngượng ngùng khi yêu. Nhưng dường như tất cả những nét bình dị của một người phụ nữ, những mong ước nhỏ nhoi của một người phụ nữ trong thị cũng bị định kiến xã hội vùi dập. Thị Nở không có được tình yêu cho riêng mình, không có được hạnh phúc lứa đôi, không giữ được cái hạnh phúc bé nhỏ mà sao bao năm thị tìm được nơi Chí Phèo. Định kiến xã hội quá gay gắt đã không cho thị con đường hạnh phúc. Dường như trong Thị Nở, ta bắt gặp giọt nước mắt của Nam Cao, giọt nước mắt xót xa cho nỗi đau của người phụ nữ, nỗi đau cho sự khát khao hạnh phúc lứa đôi nhỏ bé mà không có được. Giọt nước mắt ấy không phải chỉ cảm thương riêng cho mình Thị Nở mà còn cho cả nhân vật Từ trong Đời thừa và biết bao tác phẩm khác của ông. Từ hiện lên trong tác phẩm của Nam Cao với sự lỡ làng về tình cảm, được Hộ cứu vớt cuộc đời. Nhưng đọc Đời thừa, mỗi chúng ta lại không thể kìm nén được lòng mình trong cái khổ của Từ, trong sự đau đớn mà Từ phải chịu khi hiểu rằng mình chính là người làm khổ Hộ. Lời ru con vang lên cuối tác phẩm của Từ như thấm đẫm nước mắt của Hộ mang theo nỗi xót xa, một niềm ân hận và bao nhiêu đắng cay, cũng là giọt nước mắt của nhà văn thương cảm cho Hộ, và xót xa cho Từ:
Ai làm cho gió lên trời
Cho mưa thấm đất cho người biệt li
Ai làm cho Nam - Bắc phân kì
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân
Đọc Đời thừa, ta đau cho thân phận người phụ nữ, đau cho nỗi đau của Từ thì đến với tác phẩm Dì Hảo, ta như nghẹn lòng trước nỗi đau mà nhân vật dì Hảo phải gánh lấy. Không phải bị ruồng rẫy, xa lánh như Thị Nở, cũng không là nỗi đau dằn vặt của Từ, mà ở dì Hảo, đó là nỗi đau của người phụ nữ bị ràng buộc bởi những tư tưởng phong kiến “con giòng cháu gióng”, bị trói buộc cuộc đời với người đàn ông không yêu mình, bị dày vò bởi nỗi đau mất con, nỗi đau bị phụ bạc. Dường như giọt nước mắt của Nam Cao đã rơi trên từng trang giấy để ôm lấy nỗi đau của những người phụ nữ, để cảm nhận lấy những nỗi niềm xót xa, những gánh nặng trên đôi vai gầy mà người phụ nữ phải gánh chịu và hơn hết, từ trong nỗi đau ấy, ông còn tìm thấy được ở người phụ nữ những vẻ đẹp thanh cao và tinh tế nhất.
Với Nam Cao, có lẽ hình tượng người phụ nữ là một nét đẹp hài hòa, duyên dáng bật lên từ tâm hồn của người phụ nữ Việt từ xưa đến nay. Người phụ nữ trong tác phẩm của ông không mang những nét đẹp sắc sảo, tinh tế của tạo hóa mà ông bà ta đã từng đề cập:
“Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau.”
Hay những vẻ đẹp của người phụ nữ trong thi ca:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Ngược lại, người phụ nữ mà ta gặp trong tác phẩm của ông là những con người kham khổ, những con người không đẹp, không giàu sang nhưng mang dáng dấp hiền từ, tấm lòng tốt bụng, tình yêu thương, hiền hậu, chất lương thiện truyền thống của người phụ nữ Việt từ trong ca dao:
“Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen”
Với Chí Phèo, ta bắt gặp một Thị Nở xấu xí tưởng chừng như không thể ai xấu hơn được nữa. Thế nhưng qua ngòi bút của Nam Cao, người đọc chúng ta không thể khỏi ngỡ ngàng trước một nét đẹp riêng biệt của Thị Nở_một nét đẹp tưởng chừng không thể có ở một người phụ nữ bị mọi người ruồng bỏ, bị xem là kẻ dở hơi; nét đẹp của tâm hồn. Nam Cao đã để cho Thị Nở xuất hiện để cứu lấy chút tính người còn sót lại trong Chí Phèo, đã để tình yêu của Thị Nở ôm lấy con người của anh Chí, để khát khao được hạnh phúc, được yêu thương cháy bỏng lên trong con người anh. Thị Nở xuất hiện trong tác phẩm với một bát cháo hành cho Chí Phèo trong cơn bệnh, với sự quan tâm, chăm sóc dịu dàng và yêu thương của một người phụ nữ, một người vợ dành cho người mình yêu. Thị có đầy đủ phẩm chất của một người bình thường : biết lo toan, thương hại, có phút "lườm", "e lệ" trong cảm giác tình yêu và trên tất cả là tiếng cười tin cẩn như một phép màu giải thoát cho con người thoát ra mặc cảm tội lỗi. Có thể nói Nam Cao đã xây dựng nhân vật Thị Nở bằng bút pháp hiện thực trữ tình để gửi gắm niềm tin của chính ông vào bản chất hướng thiện của con nguời. Thực tế trong đời có lẽ khó kiếm ra người nào hội tụ những cái xấu nhường ấy và đẹp nhường ấy. Không chỉ trong Chí Phèo ta mới bắt gặp được hình ảnh những người phụ nữ tảo tần, duyên dáng mang nét đẹp hiền hòa từ tâm hồn, mà dường như trong hầu hết các tác phẩm của Nam Cao ta đều có thể cảm nhận một nét đẹp của dân tộc, một nét đẹp hiền hòa toát lên từ sự yêu thương,hiền hậu, tảo tần chăm lo cho người thân của người phụ nữ Việt Nam. Đọc Đời thừa, ta không thể quên được hình ảnh của Từ_một người phụ nữ hội tụ bao đức tính tốt đẹp của người vợ yêu chồng, người mẹ thương con, dịu dàng, chịu thương chịu khó, giàu đức hy sinh. Từ hiểu rằng Hộ khổ là vì Từ. Từ chén nước đến cử chỉ lời nói, chị đã dành cho Hộ bao tình thương yêu. Bị Hộ say rượu hắt hủi, đánh đuổi, nhưng Từ vẫn yêu chồng, không thể ôm con bỏ đi được, vì ngoài tình yêu, Hộ còn là ân nhân của chị: “Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó dối với người nuôi”. Qua đó, ta có thể tìm thấy được nét đáng yêu, nét đẹp hiền hòa trong một người phụ nữ mảnh mai,đầy bao dung và vị tha mà Nam Cao đã dựng nên trong tác phẩm của mình.Không chỉ dừng lại ở Đời thừa mà với Dì Hảo, ta lại tìm thấy một sự nhẫn nại, cái yêu thương, chịu thương chịu khó, tích cóp làm ăn của Dì Hảo; hay một bà mẹ hiền từ, yêu chồng thương con hết mực trong Từ ngày mẹ chết. Những người phụ nữ ấy không mang một vẻ đẹp kiêu sa, không mang tài năng thiên bẩm, không áo hoa, lụa là, mà đôi khi họ còn là những con người xấu xí như Thị Nở, là những nét mảnh khảnh, xanh xao do tảo tần làm lụng chăm lo gia đình như Từ, như dì Hảo,...Nam Cao đã hướng ngòi bút đến họ như viết về những con người đẹp nhất, xinh tươi nhất trong cuộc đời. Có lẽ với Nam Cao, quá trình sáng tác của ông giống như một cuộc hành trình đi tìm kiếm, khám phá vẻ đẹp còn tiềm ẩn, còn sót lại trong con người, “phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới,tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật,để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức" (Thạch Lam). Ông quan niệm: “Cái bản tính tốt của con người ta thường bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ, che lấp mất” (Đời thừa) và với nguyên tắc “cố tìm hiểu họ”, Nam Cao đã phát hiện được ra những phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ ở tâm hồn, cái đẹp thanh cao, truyền thống, hiền diệu mà chân chất, một nét đẹp hiếm có đáng để ta trân trọng và nâng niu như L.Mecxiê đã phát biểu: “Chính tâm hồn tạo nên cái nhìn, mà tâm hồn lại không có nhiều, thành thử những cặp mắt đẹp rất hiếm.”.
Người phụ nữ trong tác phẩm của Nam Cao mang theo những nỗi đau của cuộc đời, của xã hội, của những định kiến tước đoạt lấy niềm hạnh phúc nhỏ bé nhưng hơn hết, ẩn sâu trong những nỗi đau, những giọt nước mắt là cả một vẻ đẹp tâm hồn, một vẻ đẹp chân chất, mộc mạc truyền thống của người phụ nữ Việt. So với Vũ Trọng Phụng, người phụ nữ trong tác phẩm của Nam Cao đẹp hơn, thanh cao hơn. Nếu như ở Vũ Trọng Phụng, khi xã hội bị Tây hóa, người phụ nữ chạy theo những thứ văn minh rởm như cô Tuyết với bộ áo Ngây thơ, bà Văn Minh với những bộ đồ xô gai tân thời, bà phó Đoan với phong trào thể thao,... khiến người đọc cảm thấy ghê tởm, thậm chí khinh bỉ một xã hội với những người phụ nữ đánh mất vẻ đẹp vốn có; thì ở Nam Cao, người phụ nữ tuy bị dìm trong bể bờ đau khổ của cuộc đời nhưng vẫn giữ được cốt cách thanh cao, vẫn giữ được sự hiền từ, bao dung, chịu thương chịu khó, tần tảo, vẫn giữ được những vẻ đẹp tâm hồn thanh cao và đáng quý.
Qua đó, ta có thể cảm nhận được tình cảm mà nhà văn dành cho những người phụ nữ trong tác phẩm của mình,Có lẽ đối với nhà văn, người phụ nữ chính là những viên ngọc đẹp nhất của cuộc đời. Họ là những con người đau khổ trong ao bùn xã hội, nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp thanh cao, tươi sáng của nhưng đóa hoa sen tâm hồn. Bản thân họ là những viên ngọc, những đóa hoa sen tươi thắm nhất mà tạo hóa ban tặng cho cuộc đời.