Từ quê hương Bến Tre thân yêu, có một nhà thơ trẻ đầy tài năng đã tiếp nối sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Hồ Chí Minh, Sóng Hồng. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, ông đã kế thừa được lí tưởng cách mạng thể hiện ở :
" Lấy cán bút làm ngòi xoay chế độ
MẤy vần thơ bom đạn phá cường quyền"
hay " NAy ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong"
Ông chính là nhà thơ Lê Anh Xuân. Lê Anh Xuân tên thật là Ca Lê Hiến (5/6/1940 - 21/5/1968) sinh tại thị xã Bến Tre, quê ở xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Cha ông là giáo sư Ca Văn Thỉnh, một nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học. Các thành viên trong gia đình ông cũng đều là những nhà giáo, nghệ sĩ được biết tới. Anh trai ông là nhạc sĩ Ca Lê Thuần, em gái là nữ đạo diễn Ca Lê Hồng - nguyên hiệu trưởng trường Nghệ thuật Sân khấu II Thành phố Hồ Chí Minh, em trai là hoạ sĩ Ca Lê Thắng. Ông sớm tiếp xúc với văn thơ từ nhỏ, năm 12 tuổi bắt đầu vừa học văn hóa, vừa học việc ở nhà in Trịnh Đình Trọng thuộc Sở Giáo dục Nam Bộ trong chiến khu. Năm 1954, ông theo gia đình tập kết ra Bắc, học ở các trường học sinh miền Nam, Trường phổ thông trung học Nguyễn Trãi (Hà Nội), rồi vào học khoa Sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Bài thơ đầu tiên ra mắt bạn đọc, Nhớ mưa quê hương với dòng cảm xúc thương nhớ da diết miền Nam, đã chiếm được cảm tình của độc giả và đoạt giải nhì trong cuộc thi thơ năm 1960 của tạp chí Văn nghệ. Tốt nghiệp đại học, Lê Anh Xuân được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở khoa Sử và được cử đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài nhưng ông từ chối để trở về quê hương chiến đấu. Cuối năm 1964, ông vượt Trường Sơn vào miền Nam, làm việc ở Tiểu ban Giáo dục thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương cục miền Nam và sau đó là Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam. Trong thời gian này, ông bắt đầu sử dụng bút danh Lê Anh Xuân. Năm 1966, ông tham gia Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài làm thơ, ông còn viết cả văn xuôi. Lê Anh Xuân hy sinh tại ấp Phước Quảng, xã Phước Lợi, huyện Cần Đước, tỉnh Long An trong một trận càn của quân đội Mỹ. Tên ông được đặt cho một con đường tại Quận 1. Tuy ra đi lúc tuổi đời còn rất trẻ nhưng cái hảo khí của ông, cái ý chí kiên cường , cái hồn thơ gắn liền với quê hương đất nước vẫn luôn sống mãi với thời gian. Năm 2001, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Lê Anh Xuân đã sáng tác khá nhiều bài thơ chủ yếu thể hiện tình yêu đối với quê hương đất nước, đặc biệt là vùng quê Bến Tre của mình. Những bài thơ: Nhớ mưa quê hương, Trở về quê nội, Gửi miền Bắc... được độc giả yêu mến.
Trong số đó bài thơ mà tôi yêu thích nhất là bài thơ "Dừa ơi" được nhà thơ sáng tác vào tháng 1.1966. BÀi thơ rất thành công trong việc sử dụng ngôn từ cùng với ý thô nhẹ nhàng mà sâu sắc. Từ ngữ được vận dụng giản dị, quen thuộc, hình ảnh gắn liền với quê huơng xứ dừa thân yêu. Mạch diễn biền theo trình tự không gian thởi gian cùng với sự nhuần nhuyễn trong sự vận dụng các phương pháp biểu đạt: tự sự, miêu tà, biểu cảm...BÀi thơ chính là lời tâm sự xen lẫn tự hào hoà cùng niềm hoài cổ , tình cảm với ngưởi bà của nhà thơ. Hình ảnh cây dừa thể hiện phẩm chất của người dân Đồng Khởi: kiên cuờng, dũng cảm,...Dừa giúp tác giả thành công làm vật trung gian để nói đến con người Bến Tre nói riêng và người Việt NAm nói chung. Đáng ngưỡng mộ thay cho một con người có tình yêu quê hương như vậy. Từ những gì bình dị hằng ngày , đó` có thể là hàng dừa trước ngỏ, đó có thễ là hình ảnh người bà thân thương, chính những điều đó đả làm sống dậy nguồn cảm hứng của nhà thơ thể hiện tình cảm của mình . Vì lẽ đó trong các tac phẩm của Lê Anh Xuân ngoài bài thơ "Dáng đứng Bến Tre" Dừa ơi là bai thơ mà tôi yêu thích nhất. Cùng đọc nhé:
DỪA ƠI
Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió
Tôi hỏi nội tôi: "Dừa có tự bao giờ?"
Nội nói: "Lúc nội còn con gái
Đã thấy bóng dừa mát rượi trước sân
Đất này xưa đầm lầy chua mặn
Đời đói nghèo cay đắng quanh năm"
Hôm nay tôi trở về quê cũ
Hai mươi năm biết mấy nắng mưa
Nội đã khuất rồi xanh rì đám cỏ
Trên thân dừa vết đạn xác xơ.
Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổi
Mà lá tươi xanh mãi đến giờ
Tôi nghe gió ngàn xưa đang gọi
Xào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua.
Ôi có phải nhà thơ Đồ Chiểu
Từng ngâm thơ dưới rặng dừa này
Tôi tưởng thấy nghĩa quân đuổi giặc
Vừa qua đây còn lầy lội đường dây.
Tôi đứng dưới hàng dừa cao vút
Cạnh hàng dừa tơ lá mướt xanh màu
Những công sự còn thơm mùi đất
Cạnh những chiến hào chống Pháp năm nao.
Vẫn như xưa vườn dừa quê nội
Sao lòng tôi vẫn thấy yêu hơn
Ôi thân dừa đã hai lần máu chảy
Biết bao đau thương, biết mấy oán hờn.
Dừa vẫn đứng hiên ngang cao vút
Lá vẫn xanh rất mực dịu dàng
Rễ dừa bám sâu vào lòng đất
Như dân làng bám chặt quê hương.
Dừa bị thương dừa không cúi xuống
Vẫn ngẩng lên ca hát giữa trời
Nếu ngã xuống dừa ơi không uổng
Dừa lại đứng lên thân dựng pháo đài.
Lá dừa xanh long lanh ánh nắng
Theo đoàn quân thành lá nguỵ trang
Nếu rụng xuống dừa ơi không uổng
Dừa lại cháy lên ánh đuốc soi đường.
Đất quê hương nát bầm vết đạn
Đã nuôi dừa năm tháng xanh tươi
Ôi có phải dừa hút bao cay đắng
Để trổ ra những trái ngọt cho đời.
Nghe vườn dừa rì rào tiếng nhạc
Lòng nao nao tôi nhớ nội xiết bao
Tuổi thơ xưa uống nước dừa dịu ngọt
Tôi biêt đâu thuở chua xót ban đầu.
Tôi ngước nhìn mùa xuân nắng dọi
Bốn mặt quê hương giải phóng rồi
Tôi bỗng thấy nội tôi trẻ lại
Như thời con gái tuổi đôi mươi
Như hàng dừa trước ngõ nhà tôi.
(1-1966)